Sunday, December 31, 2000

Bệnh động mạch vành nguy hiểm như thế nào?

Bệnh động mạch vành là căn nguyên gây tử vong số một trong các bệnh lý tim mạch hiện nay. Tại Việt Nam, bệnh động mạch vành ngày càng gia tăng và trẻ hóa, gây ảnh hưởng nặng tới sức khỏe người bệnh.

Nếu như tai biến mạch máu não thường được biết tới như là bệnh của người cao tuổi thì bệnh động mạch vành, trong đó nguy hiểm đặc biệt nhồi máu cơ tim, đau thắt ngực lại có thể xảy ra ngay cả ở những người còn rất trẻ và khỏe mạnh. Sự thay đổi chính sách dinh dưỡng, áp lực cuộc sống đang làm bệnh lý này gia tăng.

Vai trò của động mạch vành trong cơ thể

Quả tim là một khối cơ rỗng có vai trò giống như 1 máy bơm. Tim bơm máu đi đem đến cho tất cả cơ thể. Quả tim bao gồm 2 phần có chức năng khác nhau: Tim phải tiếp nhân máu tĩnh mạch (máu đen) tới từ các bộ phận của cơ thể và bơm chúng lên phổi. Tại đây máu tĩnh mạch được làm giàu ôxy và trở thành “máu đỏ”. Tim trái nhận máu từ các tĩnh mạch phổi (máu đỏ) và bơm chúng lên động mạch chủ để đưa tới các cơ quan qua hệ động mạch ngoại biên. Mỗi phần có buồng tiếp nhân máu, được gọi là tâm nhĩ và buồng bơm máu, được gọi là tâm thất. Các tâm thất có thành cơ dày (cơ tim) co bóp đều đặn (tần số khoảng 60 - 70 lần/phút lúc nghỉ ngơi) để bơm máu tới các bộ phận khác nhau của cơ thể, làm cho dòng máu chảy trong các động mạch theo nhịp đập của tim.

Hút thuốc lá gây nguy cơ cao mắc bệnh động mạch vành.

Hút thuốc lá gây nguy cơ cao mắc bệnh động mạch vành.

Các tâm nhĩ được ngăn cách với các tâm thất bởi các van tim (van ba lá ở bên phải và van hai lá ở bên trái). Các van tim này chỉ cho dòng máu chảy theo một chiều: khi tâm thất bóp để tống máu về trong động mạch thì các van này đóng lại để ngăn cản dòng máu phụt ngược lên tâm nhĩ. Có các van tim ở các cửa ra của các tâm thất (van động mạch phổi tại cửa ra của tâm thất phải và van động mạch chủ tại cửa ra của tâm thất trái), các van này ngăn cản dòng máu chảy ngược về tâm thất trong thời kỳ tâm trương. Để cơ tim hoạt động được, cũng như các cơ quan khác trong cơ thể, cơ tim cần được đem đến đủ máu giàu ôxy. Máu được phân phối cho cơ tim qua hệ thống động mạch vành. Các nhánh động mạch vành xuất phát từ gốc động mạch chủ. Hệ động mạch vành gồm có động mạch vành trái và động mạch vành phải. Các động mạch này chia ra các nhánh nhỏ hơn đến nuôi từng vùng cơ tim.

Điều gì xảy ra lúc mắc bệnh động mạch vành?

Để hoạt động được bình thường, cơ tim cần phải phân phối năng lượng và ôxy bởi các động mạch vành. Bệnh động mạch vành xuất hiện lúc 1 hoặc nhiều nhánh động mạch này bị tắc nghẽn một phần hay hoàn toàn (thường là do các mảng xơ vữa). Thông thường cơn đau thắt ngực có thể diễn ra khi động mạch vành bị hẹp trên 50% khẩu kính của lòng mạch. Khi hoạt động thể lực, cơ thể cần nhiều ôxy hơn nên cơ tim phải làm việc nhiều hơn như: nâng cao co bóp, tăng tần số tim, huyết áp tăng... bởi thế nhu cầu ôxy của cơ tim cũng tăng lên. Nếu một nhánh động mạch vành bị hẹp, sự mang đến máu cho vùng cơ tim tương xứng trở thành không đầy đủ. Cơ tim bị thiếu máu và thiếu ôxy gây cơn đau thắt ngực. Cơn đau thắt ngực này thường xảy ra lúc bệnh nhân gắng sức và giảm đi khi bệnh nhân được nghỉ ngơi, nên người ta gọi là cơn đau thắt ngực ổn định. Nếu các mảng xơ vữa trong động mạch vành bị nứt, vỡ ra thì cơn đau thắt ngực có thể có hiện tượng cả khi nghỉ ngơi nên người ta gọi là cơn đau thắt ngực không ổn định.

Điều trị bệnh động mạch vành thế nào?

Điều trị nội khoa: Điều trị bằng thuốc, có thể sử dụng một hoặc nhiều loại thuốc kết hợp với nhau. Phương pháp này làm giảm được triệu chứng nhưng không khắc phục được nguyên do là hẹp lòng động mạch vành.

Điều trị ngoại khoa: Phẫu thuật làm cầu nối chủ - vành. Vùng cơ tim bị thiếu máu sẽ được đem tới máu bởi 1 mạch máu khác vòng qua chỗ động mạch vành bị hẹp hoặc tắc.

Tim mạch can thiệp: Can thiệp động mạch vành qua da là phương pháp không phải phẫu thuật nhưng vừa làm giảm triệu chứng, vừa giải quyết được nguyên do là hẹp lòng động mạch vành.

Cho dù người bệnh đã được điều trị bằng phương pháp ngoại khoa hay tim mạch can thiệp thì việc dùng liên tục các thuốc là hết sức nhu yếu để duy trì kết quả của các thủ thuật này. Bên cạnh đó, cần cần thay đổi lối sống như: không hút thuốc lá; luyện tập thể dục thường xuyên, đặc biệt là tập đi bộ; tránh căng thẳng quá mức; ăn nhạt, không ăn mỡ và các phủ tạng động vật, giảm thiểu ăn trứng, sữa, đồ ngọt; không uống quá nhiều rượu, bia. Và điều trị 1 số bệnh có liên quan đến bệnh động mạch vành: điều trị bệnh đái tháo đường; ăn chính sách giảm cân, chống béo phì; điều trị rối loạn lipid máu; điều trị bệnh nâng cao huyết áp.

Hiện nay có khoảng 24% bệnh nhân động mạch vành điều trị nội trú ở Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai. Những đánh tráo trong đời sống kinh tế, xã hội đã ảnh hưởng nhiều tới tập quán sinh hoạt của người Việt Nam và đó có thể là 1 nguyên do nhu yếu làm gia nâng cao bệnh động mạch vành tại nước ta.

Bệnh động mạch vành không nhất thiết phải xảy ra một cách từ từ. Nếu mảng xơ vữa bị vỡ ra có thể gây tắc mạch đột ngột hay tạo thành cục huyết khối gây tắc mạch. Lúc này động mạch bị tắc hoàn toàn và gây ra nhồi máu cơ tim. Trong cả hai trường hợp, các tế bào cơ tim bị thiếu ôxy đột ngột, cạn kiệt nguồn dự trữ năng lượng và chết giống như các cây bị khô kiệt nước. Hậu quả của nhồi máu cơ tim phụ thuộc vào độ rộng của vùng nhồi máu. Vùng cơ tim bị chết càng rộng thì chức năng tim càng giảm nặng. Đây là 1 trong các nguyên nhân thường gặp nhất của suy tim.

PGS.TS. Nguyễn Quang Tuấn

12 câu hỏi thường gặp về bệnh do vi rút Ebola12 băn khoăn thường gặp vào bệnh do vi rút EbolaMệt mỏi mạn tính vì suy nhược thần kinhMệt mỏi mạn tính vì suy nhược thần kinhĐau lưng do thoát vị đĩa đệmĐau lưng do thoát vị đĩa đệm

 

0 comments:

Post a Comment